Đề cương tuyên truyền 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành Văn bản số 90-HD/BTGTW, hướng dẫn
tuyên truyền 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2019) và
kỷ niệm 50 năm Ngày mất của Người (2/9/1969 - 2/9/2019). Việc ban
hành Hướng dẫn tuyên truyền 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và kỷ niệm 50 năm Ngày mất của Người nhằm ôn lại, khẳng định giá trị lý luận,
thực tiễn sâu sắc của Di chúc; thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh;. Qua đó góp phần khắc sâu và thực hiện có hiệu quả tư
tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
sức mạnh thời đại, xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp, văn minh. Việc triển
khai tuyên truyền 50 năm thực hiện di chúc của Người góp phần cổ vũ các phong
trào thi đua yêu nước, quyết tâm hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ các cấp
Sở Tài chính Sơn La đăng toàn văn Đề cương tuyên truyền 50 năm thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Ban tuyên giáo trung ương.
I.
HOÀN CẢNH RA ĐỜI, NỘI DUNG, GIÁ TRỊ CỦA DI CHÚC
1.
Hoàn cảnh ra đời
-
Năm 1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng
ngày 10/5/1965 Bác viết bản Di chúc với tiêu đề "Tuyệt
đối bí mật" gồm ba trang, do chính Bác đánh máy, ở cuối đề ngày
15/5/1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của Bác và
bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
- Các năm
1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng.
-Năm 1968, Bác
viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay. Trong đó, Bác viết
lại đoạn mở đầu và đoạn nói "về việc riêng" đã viết trong bản năm
1965, và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về những công việc cần làm
sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng
lợi, như: chỉnh đốn lại Đảng, quan tâm gia đình liệt sĩ, thương bệnh
binh, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp
một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và làng mạc,
khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, chuẩn bị thống
nhất đất nước.
- Ngày
10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm
một trang viết tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày 19/5/1969, Bác còn
tiếp tục sửa chữa bản Di chúc của các năm 1965, 1968, 1969. Đúng 10
giờ ngày 19/5/1969, là kỷ niệm ngày sinh lần thứ 79 của Bác, Bác đọc lại lần
cuối cùng tất cả các bản Di chúc đã viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ vào phong
bì và cất đi…
-
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang của
Người tháng 9/1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x 22 cm. Ngày 19/8/1989, Bộ
Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW Về một số vấn đề liên
quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di chúc công bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành
với bản gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong
đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm
1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được công bố, như: Việc căn dặn của Người về hoả táng
thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi;
miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp... Trong dịp
kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc
của Người.
2.
Nội dung cốt lõi của Di chúc
-Trước
hết nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định truyền thống đoàn
kết chặt chẽ trong Đảng và “cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”;
Người yêu
cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình” để củng cố và phát triển đoàn kết và thống nhất
trong Đảng.Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch.
- Nói về đoàn viên và thanh niên, Bác nhấn mạnh, “bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ - những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
- Nói về nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân lao động bao đời chịu đựng
gian khổ, bị nhiều áp bức bóc lột của phong kiến, thực dân; nhân dân ta
rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, luôn đi theo và rất trung thành với
Đảng. Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài
nhưng nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi, Chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn, sau khi kháng chiến thắng lợi, ra sức hàn
gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất nước; Đảng và Nhà nước phải quan tâm
chăm lo tới mọi đối tượng trong xã hội, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Về phong trào cộng sản thế giới, Người bày tỏ sự đau lòng vì sự bất hòa của các đảng anh em.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động,
góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên
nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.
- Nói về một số việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tiếc rằng không
được phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều
hơn nữa. Ngườicăn dặn “Sau khi tôi đã qua
đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và
tiền bạc của nhân dân”.
- Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước
lúc đi xa là toàn Đảng, toàn dân ta
đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
3.
Giá trị cốt lõi của Di chúc
a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm
tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp
cách mạng
Di
chúc là Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng phụng vụ Tổ quốc, phụng vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có
điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phụng vụ lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa”. Ý chí,
niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn
về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến dâng
trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với “các nước anh
em” và “bầu bạn khắp năm châu”.
b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng
cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với nhân dân,
không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Di chúc
nêu những vấn
đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó
là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,
nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh
thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác
chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững
vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.
-
Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại
và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, có như vậy
mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh.
Bác dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”, đó là công việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền
thống yêu nước, ý thức rèn luyện đạo đức cách
mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
-
Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững
mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các
đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng
sản thế giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó
là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản, có lý có tình”.
c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội
XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam,
mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con
người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và
đổi mới đất nước.
- Di chúc
như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự
nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội
như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; sửa đổi
chế độ giáo dục cho phù hợp hoàn cảnh mới; khôi phục và mở rộng các ngành kinh
tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; chính sách miễn thuế nông nghiệp cho
nông dân; chính sách xã hội, công bằng xã hội...
- Giá
trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hoá
Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá trong
toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn
hoá trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân,
vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về
việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn
hoá mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên, môi trường sinh thái.
-
Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là
một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, "là một công
việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì
đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người
yêu cầu, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
-
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta
phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, “động viên toàn dân,
tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
II. NHỮNG
THÀNH TỰU TRONG 50 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC
1. Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Thực hiện
Di chúc của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã đứng lên,
sức mạnh của cả dân tộc được huy động cao độ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là
thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước; chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực
dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả
nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử dân tộc ta, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực
hiện Di chúc của Người, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo nhân
dân ta tiến hành công cuộc cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chọn. Mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức
tạp, vừa phải thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của các thế
lực thù địch, phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh
tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã phấn đấu gian khổ và thu được những
kết quả hết sức quan trọng là khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; xây dựng
một số cơ sở vật chất; phát triển được một số ngành kinh tế quan trọng; thiết
lập và củng cố chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước; phát triển sự nghiệp
văn hoá, giáo dục, y tế. Đồng thời tiến hành thắng lợi trong hai cuộc
chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, bước đầu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đem lại phồn
vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân
Thực hiện Di chúc của Người, trải qua 9 kỳ Đại hội Đảng, kể từ
Đại hội IV đến Đại hội XII, Đảng ta đã ngày càng xác định rõ hơn những quan
niệm về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện, Đảng ta luôn coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng thời ra sức xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát
triển kinh tế - xã hội.
Công cuộc
đổi mới đất nước sau hơn 30 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sửtrên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị
- xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước
phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được
giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những
thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta
là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
3. Xây dựng Đảng thực sự đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, tăng cường
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và trong toàn
xã hội
Để thực
hiện những điều căn dặn về xây dựng Đảng của Bác viết trong Di chúc, Đảng ta đã
xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Đảng ta luôn luôn ý thức tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nhằm tăng
cường sức mạnh và tính chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng đã được đặt ra
trong nhiều nghị quyết của Đảng, từ nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc
đến nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, như Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (tháng 2/1999) về “Một số vấn
đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 01/2012) về “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Các nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương về công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng đã đề
ra những chủ trương và biện pháp quan trọng về xây dựng Đảng, củng cố, kiện
toàn và làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh công tác tự phê bình và phê
bình trong toàn Đảng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhằm xây dựng
Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; khắc phục những yếu kém
trong bộ máy các tổ chức của Đảng và Nhà nước. Dân chủ trong Đảng và trong xã
hội được mở rộng góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa và xã hội phát triển.
Qua các đợt vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phê bình và tự phê bình
trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở đã có những chuyển biến nhất định, sức mạnh
và tính chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên.
Cùng với
kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn khẳng định lấy chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
và đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và trong toàn xã hội để chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chính trị chủ đạo trong
đời sống của đất nước, tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn
liền với xây dựng, củng cố bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, chất lượng, hiệu
quả chính là hành động thiết thực làm theo Di chúc của Bác, xây dựng Đảng ta
thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức mạnh chiến đấu và vai trò lãnh đạo
của Đảng, làm cho uy tín của Đảng ta ngày càng cao và mối quan hệ giữa Đảng và
Nhân dân ngày càng được tăng cường.
4. Quan tâm chăm lo, xây dựng đào tạo bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau
Đảng luôn
chú ý đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ làm nguồn kế tục sự nghiệp cách mạng của
thế hệ cha anh. Đảng cũng có nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác thanh niên.
Các nghị quyết về giáo dục, đào tạo, về khoa học và công nghệ... đều đề cập
nhiệm vụ giáo dục, chăm lo thế hệ trẻ, coi thanh niên là lực lượng xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, công tác lãnh đạo
đối với hoạt động thanh niên và tuổi trẻ có nhiều đổi mới và chuyển biến tích
cực. Các hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên
Việt Nam ngày càng lôi cuốn nhiều đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên
tham gia.
Những tấm
gương, điển hình tiên tiến, xung kích, đi đầu trong chiến đấu, lao động, học
tập và công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp
tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ. Trên cơ sở quán
triệt quan điểm “xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước”, các tổ chức cơ
sở Đoàn đã phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên, sinh
viên trong thi đua thực hiện các nghị quyết của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Thông qua đó, tạo môi trường
thuận lợi để thế hệ trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện mình, trưởng thành, phấn đấu,
bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
5. Xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế
Đảng
ta do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn
cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản
thế giới, với các dân tộc bị áp bức, coi đó là một nguyên tắc, một trong những
nhân tố quyết định thành công của cách mạng nước ta.
Trong thời
kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng xác định củng cố sự đoàn kết với phong trào
cách mạng các nước, đồng thời nắm vững phương châm ngoại giao linh hoạt, có
nguyên tắc trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả
các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; Nhất quán
coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn
kết, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời
đại vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Nêu
cao nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, phát huy sức mạnh dân tộc, sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức
mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của các
lực lượng bên ngoài.
Thực thi
đường lối đối ngoại đúng đắn theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những năm gần
đây, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao uy tín
và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại
giao với 188/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, là thành viên tích cực của
hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16
nước, đối tác toàn diện với 11 nước… Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức
quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việt Nam
đã tham gia và hoạt động tích cực với vai trò ngày càng được khẳng định tại các
tổ chức của Liên hợp quốc, được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng bảo
an nhiệm kỳ 2008-2009, thành viên Hội đồng Nhân quyền, nhiệm kỳ 2014-2016; là
thành viên tích cực của các tổ chức quốc tế và khu vực: Phong trào không liên
kết, WTO, ASEAN, APEC...
III.
BÀI HỌC QUA 50 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC
1. Bài học về tinh thần lạc quan và bản lĩnh
khoa học cách mạng của Đảng
Bản Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của dân tộc ta đang trong giai đoạn ác liệt. Niềm tin sâu sắc về
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước “nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một
điều chắc chắn” trong bản Di chúc của Bác đã truyền ngọn lửa niềm tin
vào mỗi con người và tạo nên sức mạnh to lớn - sức mạnh của niềm tin, của ý chí
cách mạng của toàn dân tộc Việt Nam tạo nên Đại thắng Mùa xuân 1975 lịch sử.
Trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chúng ta phải đối mặt với những
yếu kém, bất cập của cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, nền kinh tế rời vào
khủng hoảng trầm trọng. Chính trong hoàn cảnh đó, Đảng ta lại chứng tỏ bản lĩnh
khoa học và cách mạng của mình bằng việc khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo công
cuộc đổi mới đất nước. Tại Đại hội IV, Đảng ta đã “nhìn thẳng vào sự thật”,
thực hiện tự phê bình và phê bình, nghiêm túc rút ra những bài học lịch sử của
cách mạng Việt Nam: “lấy dân làm gốc”, “tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan”, “đoàn kết toàn dân” phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Bài học về sự đoàn
kết, thống nhất trong Đảng
Trong Di
chúc, Bác khẳng định “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta”. Việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân
tố quyết định sự thành công trong mọi nhiệm vụ, “tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác”. Nhờ đoàn kết, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng Tháng
Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhờ đoàn kết, thống nhất
chúng ta đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất
đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ đoàn kết, thống nhất giữa ý Đảng và lòng
dân, đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới thành công, thoát khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
Đoàn kết thống
nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp
cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự
đoàn kết thống nhất, “giữ gìn sự đoàn kết và nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình”. Đoàn kết của Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính
trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đại đoàn kết dân tộc.
3. Bài học về thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình
Để
xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng ta phải thực hành dân chủ thực sự. Nhờ dân chủ, Đảng ta đã khơi dậy,
phát huy cao nhất trí tuệ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình. Nhờ dân chủ, trong Đảng đã khắc phục dần tình trạng bè cánh, cục bộ, địa
phương chủ nghĩa, quan liêu, hách dịch cửa quyền, xa rời quần chúng. Thực hành
dân chủ rộng rãi nghĩa là phải dân chủ thực sự, dân chủ thường xuyên, dân chủ
từ trung ương đến cơ sở. Nhưng, dân chủ phải gắn với tập trung. Tập trung dân
chủ là nguyên tắc sống còn và cũng là biện pháp tốt nhất để xây dựng Đảng ta.
Kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện trong thực hành dân chủ hình
thức. Lợi dụng dân chủ để truyền bá những quan điểm, tư tưởng cá nhân, xâm
hại đến lợi ích chung, gây mất đoàn kết trong Đảng, trong xã hội.
Thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình là
nguyên tắc, là quy luật phát triển của Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh coi đây
là biện pháp tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng.
Người yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm túc, không nể
nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp
cho bản thân và đồng đội ngày càng tiến bộ hơn; tuyệt đối không vì mâu thuẫn cá
nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo kiểu “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm
vết” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê
bình là công việc thường xuyên; ngừng tự phê bình và phê bình tức là ngừng
tiến bộ, là thoái bộ.
4. Bài học về sự quan tâm đặc biệt
sâu sắc tới thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước
Đoàn viên, thanh niên là người kế
tục sự nghiệp cách mạng của Đảng. Những hạt giống tốt sẽ nảy nở, vươn cao những
mầm xanh cho đất nước, quê hương. Bác căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Công việc này “quan
trọng” vì không ai khác ngoài các thế hệ thanh niên sẽ kế tục sự nghiệp cách
mạng. Công việc này “cần thiết” vì tính cấp bách trước mắt cũng như sự nghiệp
lâu dài; việc rèn luyện đạo đức cách mạng, việc xây dựng một thế hệ cách mạng
đòi hỏi phải có thời gian của sự thử thách.
5. Bài học về chăm lo,
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân
Sự quan
tâm tới nhân dân là bổn phận, trách nhiệm của Đảng bởi lợi ích của Đảng không
nằm ngoài lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Có như vậy, nhân dân mới có niềm
tin vững chắc vào Đảng; một lòng một dạ đi theo Đảng để cuộc sống càng ngày
càng hoàn thiện hơn.
6. Bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách
mạng
Khi nói về
việc riêng trong bản Di chúc của mình, Bác “chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho Tổ quốc, cho cách mạng và cho nhân dân.
Bác nhấn mạnh từ “phục vụ” nhằm nói rõ nhiệm vụ của người làm cách mạng là phải
quên mình “phục vụ” Tổ quốc, nhân dân. Người cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa
là người “đầy tớ” trung thành của nhân dân, không đòi hỏi một quyền
lợi riêng cho mình, cống hiến trọn đời cho nhân dân, cho Tổ quốc.
IV.
TIẾP TỤC THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
1. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên
quyết ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống trong cán bộ, đảng viên
Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong gần 90 năm đã qua, cả hôm nay và mai sau. Vì vậy phải thường
xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng vững mạnh. Đảng có mạnh cách
mạng mới thành công.
Thực
hiện các Nghị quyết Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm vừa cơ bản, cấp bách, vừa thường xuyên lâu
dài, cần kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; lấy “xây” làm nhiệm vụ cơ bản,
chiến lược lâu dài, lấy “chống” làm nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, đột phá trên
nguyên tắc giữ vững sự ổn định chính trị để phát triển đất nước. Vừa đẩy mạnh
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết
đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng. Tiếp tục rà
soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế kiểm soát việc thực thi
quyền lực của người có chức, có quyền, bảo đảm quyền hạn đến đâu trách nhiệm
đến đó; có chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm; ngăn chặn, đấu
tranh, xử lý triệt để, công khai, đúng pháp luật các vụ việc tiêu cực, tham
nhũng, lợi ích nhóm, tư tưởng cục bộ, bè phái, chạy chức, chạy quyền, chạy
tuổi, chạy dự án,... Vừa tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật của Đảng, vừa phát huy cao độ vai trò giám sát, phản biện của các tổ chức
chính trị - xã hội, của nhân dân ngay từ khi xây dựng và trong quá trình thực
thi chính sách, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa khi mới có dấu hiệu vi phạm.
Trước mắt tập trung kiểm tra, xử lý dứt điểm những vụ tham nhũng phức tạp, các
vụ việc vi phạm trong thực thi quyền lực, nhất là vi phạm trong công tác cán bộ
đang gây bức xúc trong xã hội, bất bình trong nhân dân.
2. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên
Cùng với
việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về
trách nhiệm nêu gương, đặc biệt là Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của
Ban Chấp hành Trung ương Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương. Nêu gương của cán bộ, đảng viên là tỏ rõ sự biết ơn Bác, tự hào và
nguyện làm theo Bác. Nêu gương về lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách
mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ
được giao. Nêu gương về đạo đức, lối sống trong sáng; về bản lĩnh, trách nhiệm,
niềm tin. Nêu gương phải thực chất, tránh hình thức, cố tạo ra hình ảnh, phải
thật sự chân thực trong công việc, cuộc sống của mỗi người lãnh đạo, bình dị,
giản dị như cuộc đời của Bác.
3. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân
Mục tiêu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại là một dấu mốc trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, mở ra những điều kiện mới, thuận lợi hơn cho việc tiếp tục xây dựng,
phát triển đất nước lên tầm cao mới, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường
thế và lực của đất nước. Để đạt được mục tiêu ấy, cần phải nhận thức đầy đủ và
vận dụng đúng các quy luật phát triển, huy động được các nguồn lực của đất nước
mà trước hết, quan trọng nhất là nguồn lực con người, phải có một lộ trình kế
hoạch để từng bước thực hiện.
Nhân dân là mục tiêu tối thượng, đồng thời là động lực quyết
định của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của chúng ta là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân làm chủ. Mọi thành quả của
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước đều vì hạnh phúc của nhân dân, vì mục
tiêu không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Mọi
nhiệm vụ cách mạng đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là
yêu cầu xuất phát từ bản chất của chế độ ta.
4. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện cán bộ,
đáp ứng thực hiện nhiệm vụ cách mạng
Thực hiện di chúc của Người và
để thực hiện tốt chiến lược “trồng người”, nhằm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau đạt hiệu quả; đảm bảo xây dựng đội ngũ kế cận tài đức, hoàn thành tốt
trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, trong thời gian tới, các cấp ủy,
chính quyền, ban, ngành chức năng từ Trung ương đến địa phương cần tập trung
quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thế hệ
trẻ, về “đổi mới nội dung, phương thức chính trị, tư tưởng, truyền thống, bồi
dưỡng lý tưởng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, ý thức tôn
trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho cán bộ, đảng viên
nhất là thế hệ trẻ… Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Chỉ thị số
42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ
trẻ, giai đoạn 2015-2030”. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà
trường - Đoàn Thanh niên - xã hội trong đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ toàn diện
về mọi mặt; trong đó, chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng
giao việc, tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm, phấn đấu và trưởng
thành; xây dựng nguồn cán bộ trẻ, đảm bảo quy hoạch cho trước mắt và lâu dài,
“phải khéo léo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ”, “không nên coi thường cán bộ
trẻ” như Hồ Chí Minh đã căn dặn.
5. Mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế Việt
Nam trong hội nhập quốc tế
Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết quốc tế sẽ mở
ra khả năng rộng lớn để vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối ngoại
mà Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra. Vì vậy, trong thời kỳ mới,
Đảng ta tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động đối
ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế”. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác,
nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với
phát triển và an sinh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực
chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt
là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về
quốc phòng, an ninh... Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị,
an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nâng cao chất lượng công tác
tham mưu về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác thông tin đối
ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ của
bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất
nước.
* * *
Nguyễn
Văn Phong - Theo Ban Tuyên giáo Trung ương